Ngày 20 tháng 5 năm 2025, Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng Địa chất - Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Ba Bể, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Kạn, cùng đại diện chính quyền hai xã Đồng Phúc, Yến Dương và các thôn có liên quan, tiến hành điều tra, khảo sát thực tế trượt lở đất, lũ bùn đá và lũ quét xảy ra tại thôn Tẩn Lượt xã Đồng Phúc và thôn Phiêng Khăm xã Yến Dương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Trên cơ sở kết quả khảo sát hiện trường và tổng quan tài liệu thu thập được, Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng Địa chất báo cáo sơ bộ hiện trạng, đồng thời nhận định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục, phòng tránh như sau:
Kết quả điều tra lũ bùn đã do mưa lớn tại xã Đồng Phúc và xã Yến Dương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
Ngày 20 tháng 5 năm 2025, Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng Địa chất - Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Ba Bể, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Kạn, cùng đại diện chính quyền hai xã Đồng Phúc, Yến Dương và các thôn có liên quan, tiến hành điều tra, khảo sát thực tế trượt lở đất, lũ bùn đá và lũ quét xảy ra tại thôn Tẩn Lượt xã Đồng Phúc và thôn Phiêng Khăm xã Yến Dương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Trên cơ sở kết quả khảo sát hiện trường và tổng quan tài liệu thu thập được, Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng Địa chất báo cáo sơ bộ hiện trạng, đồng thời nhận định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục, phòng tránh như sau:
I. Thông tin thu thập, khảo sát
I.1. Thông tin tổng quan về diễn biến, thiệt hại từ địa phương
Trong đêm ngày 17/5 và rạng sáng ngày 18/5/2025, trên địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã xảy ra mưa vừa đến mưa to, riêng khu vực các xã Đồng Phúc và Yến Dương có mưa rất to kéo dài trong nhiều giờ, gây ra lũ quét và lũ bùn đá nghiêm trọng. Các hiện tượng thiên tai này đã gây thiệt hại lớn về người, tài sản, nhà cửa, hoa màu và nhiều công trình phúc lợi của người dân. Tổng thiệt hại trên toàn huyện ước tính khoảng 90 tỷ đồng, cụ thể:
- Thiệt hại về người:
+ Số người chết: 04 người (02 người tại thôn Tẩn Lượt, xã Đồng Phúc; 02 người tại thôn Phiêng Khăm, xã Yến Dương).
+ Số người bị thương: 03 người (01 người tại thôn Tẩn Lượt, xã Đồng Phúc; 02 người tại thôn Phiêng Khăm, xã Yến Dương - cùng trong một gia đình có người thiệt mạng).
- Thiệt hại về nhà cửa:
+ Sập đổ hoàn toàn: 06 nhà (05 nhà tại xã Đồng Phúc, 01 nhà tại xã Yến Dương).
+ Bị hư hại nặng: 50 nhà (14 nhà tại xã Đồng Phúc, 01 nhà tại xã Cao Thượng, 14 nhà tại xã Chu Hương, 11 nhà tại xã Khang Ninh, 05 nhà tại xã Quảng Khê, 01 nhà tại xã Thượng Giáo, 04 nhà tại xã Địa Linh).
+ Bị ngập nước, bùn đất: 125 nhà (49 nhà tại xã Đồng Phúc, 18 nhà tại xã Yến Dương, 22 nhà tại xã Địa Linh, 56 nhà tại thị trấn Chợ Rã).
+ Có 01 nhà tại xã Địa Linh buộc phải di dời khẩn cấp do nằm trong khu vực có nguy cơ sạt lở cao.
- Thiệt hại về sản xuất nông, lâm nghiệp: Diện tích bị đất đá vùi lấp, ngập úng khoảng 359 ha. Ước tính thiệt hại khoảng 33,52 tỷ đồng.
- Thiệt hại về chăn nuôi và thủy sản: Ước tính thiệt hại khoảng 7,9 tỷ đồng.
- Thiệt hại về công trình thủy lợi: Ước tính thiệt hại khoảng 0,5 tỷ đồng.
- Thiệt hại về công trình giao thông: Ước tính thiệt hại khoảng 40 tỷ đồng.
I.2. Phản ứng của chính quyền địa phương
Ngay sau khi xảy ra thiên tai, chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng đã khẩn trương triển khai các biện pháp ứng phó và khắc phục hậu quả, cụ thể:
- Chỉ đạo trực tiếp tại hiện trường:
+ Cử các đoàn công tác đến hiện trường để nắm tình hình, phối hợp với chính quyền cơ sở triển khai các phương án ứng phó, tìm kiếm cứu nạn.
+ Thăm hỏi, động viên các gia đình có người bị nạn; hỗ trợ mai táng phí cho các gia đình có người thiệt mạng.
- Đảm bảo an toàn khu vực nguy hiểm:
+ Cắm biển cảnh báo tại các khu vực có nguy cơ sạt lở cao.
+ Tổ chức lực lượng kiểm soát tại các khu vực đang xử lý để đảm bảo an toàn cho người dân và lực lượng tham gia khắc phục hậu quả.
- Ban hành các văn bản chỉ đạo:
+ UBND huyện và các đơn vị liên quan đã chỉ đạo khẩn, huy động lực lượng, phương tiện và nguồn lực tại chỗ để khẩn trương triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn và khắc phục thiệt hại.
+ Phối hợp với các sở, ngành để đánh giá thiệt hại, đề xuất phương án hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất và ổn định đời sống.
I.3. Thông tin khảo sát khu vực xảy ra lũ bùn đá xã Đồng Phúc và xã Yến Dương

Hình 1. Hai lưu vực xảy ra lũ bùn đá (khoanh vùng màu cam) tại thôn Tẩn Lượt, xã Đồng Phúc (trái) và thôn Phiêng Khăm, xã Yến Dương (phải)

Hình 2. Mặt cắt địa hình lưu vực thôn Tẩn Lượt, xã Đồng Phúc

Hình 3. Mặt cắt địa hình lưu vực thôn Phiêng Khăm xã Yến Dương
I.3.1. Tại xã Đồng Phúc
Khu vực xảy ra lũ bùn đá thuộc thôn Tẩn Lượt, xã Đồng Phúc nằm trong một lưu vực có diện tích 4,16 km2 với chiều dài khoảng 3 km (được khoanh vùng thể hiện bằng màu cam trên Hình 1). Địa hình trong lưu vực có nhiều đoạn thay đổi đột ngột về độ dốc và hình thái mặt cắt ngang, với sự xen kẽ giữa các đoạn suối hẹp, dốc và các đoạn mở rộng hơn, tạo nên sự phân bố không đều về độ dốc và khả năng thoát nước.
Thông tin từ cán bộ địa phương (trưởng thôn Tẩn Lượt) cho biết, lòng suối trước khi xảy ra lũ có chiều rộng trung bình khoảng 3–5 m, sâu 2–3 m. Sau lũ, lòng suối bị mở rộng đáng kể, đạt từ 15–30 m và bị khoét sâu từ 6–8 m theo mặt cắt hình chữ U hoặc V, cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ về hình thái do dòng bùn đá gây ra.
Vật liệu bồi tích tại hiện trường chủ yếu gồm đất sét, bột, cát, mảnh đá vụn, tảng lăn sét vôi có cạnh sắc (kích thước từ 0,1–3 m³), xen lẫn một số tảng lăn granit lớn khá tròn cạnh. Đây là nguồn vật liệu rời với kích cỡ và thành phần đa dạng, phân bố dọc theo lòng suối và sườn dốc hai bên, góp phần tạo nên khối lượng lớn trầm tích khi xảy ra chuyển động dòng chảy mạnh.
Hình 3. Khu vực UBND xã Đồng Phúc đang được dọn dẹp vật liệu lũ bùn đá (Vị trí DP.01 trong Hình 1)
Hình 4. Một trong các vị trí được nhận định đã xảy ra trượt lở, tạo đập tạm thời (vị trí DP.02 trong Hình 1)
I.3.1. Tại xã Yến Dương
Khu vực xảy ra lũ bùn đá tại thôn Phiêng Khăm, xã Yến Dương là một lưu vực rộng, có diện tích khoảng 6,51 km² và chiều dài khoảng 5 km (khoanh vùng màu cam – Hình 1). Dọc theo dòng suối trong lưu vực, từ lâu đã tồn tại nhiều khối đá tảng lớn nhỏ phân bố rải rác – đây là dấu tích của các quá trình vận chuyển vật liệu mạnh như trượt lở, đá lăn hoặc lũ bùn đá từng xảy ra trong quá khứ. Đáng chú ý, trong khu vực dân cư (phân bố rải rác ven theo suối hiện tại), cũng ghi nhận sự hiện diện của nhiều tảng đá lăn lớn đã tồn tại từ lâu, phản ánh lịch sử hoạt động động lực địa chất phức tạp, cũng như khả năng biến đổi dòng chảy theo thời gian (Hình 5).
Hình 5. Vật liệu trượt lở, lũ bùn đá cổ nằm rải rác tại khu vực thôn Phiêng Khăm
Trong sự kiện lũ bùn đá xảy ra vào ngày 17 và 18/05/2025, dòng chảy mạnh đã cuốn trôi nhiều tảng đá lớn xuống hạ lưu (Hình 6), gây phá hủy hoàn toàn đoạn cầu dẫn vào thôn và làm gián đoạn nghiêm trọng tuyến giao thông chính vào khu vực.

Hình 6. Lũ quét gây sập cầu, tích tụ vật liệu tại vị trí YD.02 (trong Hình 1)
Tại khu vực nhà bị phá hủy (vị trí YD.03 trong Hình 1 và ảnh chi tiết tại Hình 7), nơi có 2 người tử vong, ngay cạnh nhà này là vị trí lòng suối bị chắn ngang bởi hai tảng đá lớn. Đây là những khối đá đã tồn tại từ lâu và nằm cố định vững chắc tại vị trí này. Khi dòng lũ bùn đá mang theo nhiều vật liệu đổ về, các tảng đá này đã chặn lại một phần dòng chảy, khiến nước và bùn đá bị đổi dòng, tràn vào nhà dân gây thiệt hại nặng về người và tài sản. Ngay sau đó, dòng lũ với động năng lớn đã gây dịch chuyển hai tảng đá lớn này. Hai tảng đá sau đó đã bị cuốn trôi cùng với các vật liệu khác xuống hạ lưu. Việc dịch chuyển và di chuyển của các khối đá này đã làm giảm nguy cơ lũ quét cho các hộ dân bên dưới bản Phiêng Khăm, giúp họ tránh được thiệt hại trực tiếp từ dòng lũ.

Hình 7. Khu vực nhà bị phá hủy (2 người thiệt mạng) tại xã Phiêng Khăm
(Vị trí YD.03 trong Hình 1)
Ngoài ra, tại nhiều khu vực tại huyện Ba Bể, đặc biệt là trên các tuyến đường của xã Đồng Phúc và xã Yến Dương, nhiều điểm trượt lở có quy mô khác nhau đã xuất hiện. Mặc dù đến thời điểm hiện tại chưa ghi nhận thiệt hại về người, nhưng các điểm trượt này có khả năng tiếp tục mở rộng, tiềm ẩn nguy cơ cao gây thiệt hại nặng nề về tài sản và an toàn của người dân nếu không được theo dõi và xử lý kịp thời (Hình 8).

Hình 8. Điểm trượt lở lớn trên đường đi vào thôn Phiêng Khăm (vị trí YD.01 trong Hình 1)
II. Nhận định các tác nhân
II.1. Đặc điểm địa chất

Hình 9. Sơ đồ địa chất khu vực 2 lưu vực xảy ra lũ bùn đá
Khu vực xảy ra lũ bùn đá và lũ quét tại thôn Tẩn Lượt xã Đồng Phúc và thôn Phiêng Khăm, xã Yến Dương nằm ở rìa phía Bắc của đới cấu trúc Phú Ngữ – một khu vực có đặc điểm địa chất phức tạp, bị chia cắt mạnh do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo cổ và hiện đại. Theo bản đồ địa chất tỉ lệ 1:200.000 tờ Bắc Kạn (F-48-XVI), các phân vị địa tầng chính trong khu vực bao gồm: Hệ tầng Phú Ngữ (O₃-S₁pn₁); Hệ tầng Mia Lé (D₁ml₁), và Phức hệ Phia Oắc (ɣaT₃npb₁).
Các đơn vị địa chất này không chỉ có thành phần vật chất khác biệt mà còn chịu ảnh hưởng mạnh của hệ thống đứt gãy, dẫn đến quá trình phong hóa sâu, hình thành tầng vật liệu rời dễ bị trượt lở hoặc xói mòn, đặc biệt dưới tác động của mưa lớn cực đoan.
- Đặc điểm địa chất – địa tầng
+ Hệ tầng Phú Ngữ (O₃-S₁pn₁) chủ yếu gồm đá phiến sét, cát bột kết, sét silic và tuf, là các loại đá dễ phong hóa và có độ bền thấp, nhất là khi đã bị nứt nẻ do đứt gãy hoặc thấm nước lâu ngày. Tập giữa (O₃-S₁pn₁) còn chứa các thấu kính đá vôi và vôi sét – các đá dễ bị hòa tan, phân rã và tạo khe rỗng, làm tăng tính bất ổn định mái dốc khi có mưa lớn.
+ Hệ tầng Mia Lé (D₁ml₁)– đặc biệt là tập 1 với thành phần đá phiến sét nâu đen – có khả năng phong hóa mạnh và dễ hình thành mặt trượt cũ, đã được ghi nhận trên bản đồ hiện trạng trượt lở của Đề án chính phủ “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam”.
+ Phức hệ Phia Oắc (ɣaT₃npb₁) nằm ở khu vực trung tâm khảo sát, gồm các đá xâm nhập có độ bền cơ học cao như granodiorit, granit porphyr, granit biotit và granit hai mica. Tuy nhiên, các đá này thường bị phân cắt bởi hệ thống khe nứt dày đặc, phát sinh do quá trình nguội nhanh hoặc tái hoạt động kiến tạo sau khi hình thành. Sự khác biệt giữa các pha thành tạo (pha 1 và pha 2) còn cho thấy mức độ biến động kiến tạo kéo dài và phức tạp trong quá khứ.
- Hoạt động kiến tạo
Khu vực khảo sát bị chi phối mạnh bởi hệ thống đứt gãy có phương Tây Bắc – Đông Nam, cùng với nhiều khe nứt thứ cấp phân bố dày đặc. Các đứt gãy này hình thành những đới dập vỡ sâu và kéo dài, nơi đất đá bị vò nhàu, liên kết kém. Sản phẩm của quá trình đứt gãy tại các đới dập vỡ thường giàu sét dễ ngậm nước và có tính trương nở, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trượt lở phát triển theo tuyến đứt gãy.
- Nguồn vật liệu lũ bùn đá và đặc điểm trầm tích
Nguồn vật liệu gây lũ bùn đá chủ yếu là sản phẩm phong hoá của các thành tạo có mặt trong khu vực. Dưới tác dụng của hoạt động kiến tạo và thời tiết khu vực dẫn đến các đá bị dập vỡ, nứt nẻ làm đẩy nhanh quá trình phong hoá. Tầng vật liệu rời này gồm hỗn hợp: mùn thực vật, sét, bột, mảnh đá sắc cạnh kích thước nhỏ, tảng đá lăn sét vôi, kích thước từ 0,1 đến 3 m³. Những vật liệu này có liên kết kém, khả năng thấm hút nước cao, dễ trở nên mất ổn định khi gặp mưa lớn kéo dài, gây ra hiện tượng trượt nông hàng loạt hoặc bị cuốn theo dòng lũ bùn đá.
Ngoài ra, nhiều tảng granit lăn rời cũng được ghi nhận tại hiện trường, có khả năng bắt nguồn từ các thể magma thuộc phức hệ Phia Oắc. Dù có đặc tính cơ lý cao, nhưng khi bị tách khỏi khối gốc và di chuyển trong dòng chảy, các tảng đá này tăng đáng kể động năng, khả năng va đập và mức độ phá hủy của dòng lũ bùn đá, đặc biệt khi va chạm vào các công trình hạ tầng hoặc khu dân cư.
II.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo
Khu vực khởi phát dòng lũ bùn đá có đặc điểm địa hình phức tạp với sự thay đổi độ cao đột ngột, xuất hiện nhiều vách dốc cao, sườn núi gãy khúc và các khe tụ sâu. Đây là nơi dễ tích tụ vật liệu rời từ các trận mưa lớn trước đó, đặc biệt là tại chân các vách dốc, hốc lồi lõm và các bậc địa hình gãy nứt. Những vùng này có khả năng hình thành túi vật liệu rời không ổn định, bao gồm mùn thực vật, sét, bột và tảng lăn, dễ bị kích hoạt khi gặp mưa lớn kéo dài.
Toàn bộ khu vực có địa hình dốc, mạng lưới khe rãnh phát triển mạnh, lòng suối hẹp và sâu. Chính hình thái này tạo điều kiện lý tưởng cho sự hình thành dòng bùn – nước tập trung. Khi vật liệu sạt trượt xuống các rãnh sâu hoặc lòng suối, chúng dễ gây nghẽn dòng, tạo thành các đập chắn tạm thời. Các đập chắn này có cấu trúc lỏng lẻo, khi chịu tác động từ lượng nước lớn hoặc áp lực cơ học tăng nhanh, sẽ bị phá vỡ đột ngột, sinh ra dòng lũ bùn đá với vận tốc lớn, khả năng vận chuyển vật liệu mạnh và sức phá hủy cao.
Bên cạnh đó, vật liệu rời có nguồn gốc từ tầng phong hóa dày và đới dập vỡ địa chất được phân bố rộng rãi dọc theo sườn dốc và tại các chân vách đá, tạo điều kiện tích tụ tiềm năng cho các dòng trượt sạt khi có yếu tố kích hoạt như: mưa cực đoan, xói mòn tập trung, hoặc rung chấn địa chấn.
Thông qua điều tra thực địa kết hợp phỏng vấn người dân và cán bộ địa phương, đã ghi nhận sự hiện diện của nhiều tảng lăn, lớp bùn – cát cổ tích tụ tại khu dân cư vùng hạ lưu, cho thấy khu vực đã từng xảy ra các sự kiện lũ bùn đá tương tự trong quá khứ. Điều này cho thấy tính tái diễn cao của tai biến này, đồng thời khẳng định các điều kiện địa hình – địa mạo và tích tụ vật liệu nguy hiểm hiện vẫn tồn tại, cần được quan trắc thường xuyên và đưa vào hệ thống cảnh báo sớm.

Hình 10. Sơ đồ phân vùng nguy cơ trượt lở khu vực huyện Ba Bể (Sản phẩm của Đề án chính phủ về trượt lở)

Hình 11. Biểu đồ tổng hợp phần trăm diện tích nguy cơ trượt lở các xã huyện Ba Bể
Trong bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất đá của Đề án chính phủ “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam” (Hình 10,11), huyện Ba Bể được xác định là một trong những khu vực có nguy cơ trượt lở cao. Đặc biệt, các xã Bành Trạch, Cao Thượng, Đồng Phúc, Phúc Lộc và Yến Dương được xác định là những khu vực có nguy cơ trượt lở đất đá ở mức rất cao trên toàn tỉnh Bắc Kạn. Ngoài ra, các xã Quảng Khê, Mỹ Phương và Thượng Giáo cũng thuộc nhóm có nguy cơ cao, nhất là tại những vị trí địa hình bất lợi như ven suối, chân sườn núi, hoặc khu vực có độ dốc lớn và bị chia cắt mạnh bởi hệ thống khe nứt, đứt gãy kiến tạo. Đây là những điều kiện thuận lợi cho các quá trình trượt lở, lũ bùn đá phát triển khi xảy ra mưa lớn kéo dài. Các kết quả này phù hợp với thực địa, nơi từng ghi nhận nhiều điểm trượt lở, lũ bùn đá và thiệt hại về người và tài sản trong các đợt mưa lớn cực đoan những năm gần đây.
II.3. Tác động kích hoạt của mưa lớn

Hình 12. Biểu đồ thể hiện lượng mưa giờ và lượng mưa tích lũy từ 20 giờ ngày 17/05/2025 đến 3 giờ sáng ngày 18/05/2025
Dữ liệu quan trắc tại trạm đo mưa Yến Dương cho thấy, trong khoảng thời gian từ 20:00 ngày 17/05 đến 03:00 ngày 18/05, khu vực đã xảy ra một trận mưa lớn với cường độ tăng nhanh, tập trung chủ yếu trong 4 giờ đầu. Lượng mưa bắt đầu tăng đáng kể từ 21:00 với 19,4 mm, sau đó tăng lên 42,6 mm vào 22:00 và đạt đỉnh 69,6 mm vào 23:00 – thời điểm được xác định là lúc xảy ra trận lũ quét và lũ bùn đá nghiêm trọng tại khu vực. Tiếp theo, mặc dù lượng mưa giảm dần sau đó, vẫn ghi nhận 44,6 mm tại 00:00 ngày 18/05, cho thấy mưa lớn vẫn tiếp diễn ngay sau khi lũ xảy ra (Hình 12).
Tổng lượng mưa tích lũy trong 3 giờ trước thời điểm xảy ra lũ (từ 20:00 đến 23:00 ngày 17/05) là 131,6 mm. Đây là một giá trị rất cao trong thời gian ngắn, thể hiện tính chất cực đoan và tập trung của đợt mưa, đủ để gây ra mất ổn định mái dốc, hình thành các dòng chảy tràn bề mặt mạnh, dẫn đến lũ bùn đá. Đặc biệt, tốc độ tăng mưa trong 3 giờ đầu (từ 0 mm tại 20:00 lên 69,6 mm tại 23:00) cho thấy cường độ mưa tăng rất nhanh, với mức gia tăng trung bình trên 20 mm/giờ – là yếu tố cực kỳ nguy hiểm trong điều kiện địa hình dốc, thảm phủ yếu hoặc có tầng phong hóa dày chứa vật liệu rời. Trong bối cảnh đó, lượng mưa lớn không có thời gian thấm vào đất, dẫn đến tình trạng dòng chảy tràn mặt xảy ra sớm, làm gia tăng khả năng xói mòn, sụt lở và hình thành các dòng bùn đá di chuyển nhanh dọc theo lòng suối, khe dốc. Điều này rất phù hợp với các nghiên cứu về cơ chế hình thành lũ quét tại miền núi Việt Nam – nơi vật liệu phong hóa phong phú, địa hình dốc, và hệ thống sông suối ngắn, dốc, phản ứng nhanh với mưa cực đoan.
III. Đề xuất và kiến nghị
Căn cứ vào các kết quả khảo sát thực địa, phân tích nguyên nhân và đánh giá hiện trạng sau sự kiện lũ bùn đá tại xã Đồng Phúc và xã Yến Dương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số đề xuất và kiến nghị nhằm phục vụ công tác phòng tránh và giảm thiểu rủi ro thiên tai như sau:
1. Thiết lập khu vực cảnh báo nguy cơ lũ bùn đá và trượt lở đất
Tiến hành khoanh vùng chi tiết các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ bùn đá dựa trên các yếu tố địa hình, địa chất, lượng vật liệu rời tích tụ, và lịch sử tai biến.
Cập nhật bản đồ nguy cơ thiên tai ở tỷ lệ lớn (1:5.000 hoặc 1:10.000) cho các khu dân cư, tuyến đường, công trình hạ tầng nằm dọc theo các suối dốc và khe sâu.
Xây dựng cơ sở dữ liệu GIS phục vụ công tác quản lý, cảnh báo sớm và ra quyết định trong tình huống khẩn cấp.
2. Tăng cường quan trắc và cảnh báo sớm thiên tai theo thời gian thực
Lắp đặt thiết bị đo mưa tự động, cảm biến độ ẩm đất và camera giám sát tại các vị trí trọng yếu, đặc biệt là khu vực tích tụ vật liệu trên các vách dốc có nguy cơ phát sinh lũ bùn đá.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm lũ bùn đá theo ngưỡng mưa (rainfall threshold) kết hợp mô hình cảnh báo theo thời gian thực (early warning system) ở cấp xã – thôn.
Thiết lập kênh thông tin liên lạc hiệu quả giữa chính quyền địa phương, cơ quan phòng chống thiên tai và người dân để đảm bảo cảnh báo kịp thời.
3. Hạn chế phát triển dân cư và hạ tầng tại khu vực nguy cơ cao
Chủ động dọn dẹp vật liệu rời (đất, đá, cành cây, thân gỗ…) tại các điểm tụ, hốc trũng, cầu cống nhỏ, nhằm tránh hình thành các điểm nghẽn dòng chảy, ngăn tạm dòng nước gây tích nước và vỡ bất ngờ – vốn là cơ chế kích hoạt điển hình của lũ bùn đá.
Rà soát và di dời khẩn cấp các hộ dân, công trình hạ tầng đang nằm trong vùng nguy cơ cao, nhất là các khu vực hạ lưu có dấu hiệu từng chịu ảnh hưởng của dòng lũ bùn đá trong quá khứ.
Ban hành quy hoạch sử dụng đất có yếu tố rủi ro thiên tai, cấm mở rộng khu dân cư tại các chân dốc lớn, bờ khe sâu, nơi từng xảy ra dòng chảy bùn đá.
4. Nâng cao nhận thức cộng đồng và năng lực ứng phó cấp cơ sở
Tổ chức tập huấn, tuyên truyền, diễn tập phòng tránh lũ bùn đá cho người dân, cán bộ xã, thôn bản.
Hướng dẫn người dân xây dựng kế hoạch sơ tán và chuẩn bị vật tư thiết yếu cho mùa mưa bão.
Phát triển các tài liệu trực quan, bản đồ dễ hiểu, áp phích, ứng dụng di động nhằm hỗ trợ người dân nhận diện nguy cơ tại nơi ở.